Các nhánh của Vedanta Vedanta

Advaita Vedanta

Tập tin:Adi Shankara recoloured.jpgAdi Sankara - Triết gia Advaita

Advaita Vedānta là trường phái có ảnh hưởng mạnh nhất trong Vedanta, và nhiều triết gia, cả người Ấn Độ và người phương Tây, đã bị ảnh hưởng bởi trường phái này. Nó được đề ra bởi Adi Sankara, một triết gia Ấn Độ nổi tiếng, và thầy ông là ParamaGuru Gaudapada, người đã miêu tả Ajativada. Theo trường phái này của Vedānta, Brahman là sự thật duy nhất, và thế giới này, như là đang thấy, chỉ là ảo ảnh. Vì Brahman là sự thật duy nhất, nó không được nói là mang một thuộc tính nào. Một quyền năng ảo của Brahman gọi là Māyā đã làm cho thế giới được tạo ra. Sự ngu dốt về sự thật này là nguyên nhân của tất cả các khổ đau trong thế giới và chỉ dựa trên kiến thức thật sự của Brahman sự giải thoát mới có thể đạt được. Khi một người cố gắng biết đến Brahman thông qua đầu óc của anh ta, do ảnh hưởng của Māyā, Brahman xuất hiện như là God (Ishvara), tách ra khỏi thế giới và khỏi từng cá nhân. Trong thực tế, không có sự khác nhau giữa linh hồn cá nhân jīvātman (xem Atman) và Brahman. Giải thoát nằm ở trong sự hiểu biết về sự thật của sự không khác biệt này (i.e. a-dvaita, bất nhị nguyên, nhất nguyên, "not-two"-ness). Do đó, con đường dẫn tới sự giải thoát cuối cùng là chỉ thông qua kiến thức (jñāna).

Vishishtadvaita

Vishishtadvaita được đề ra bởi Ramanuja và nói rằng jīvātman là một phần của Brahman, và do đó tương tự, nhưng không giống nhau hoàn toàn. Điểm khác biệt chính so với Advaita là ở trong Visishtadvaita, Brahman được xem là có các thuộc tính, bao gồm cả những linh hồn cá nhân và vật chất. Brahman, vật chất và các linh hồn cá nhân là khác nhau nhưng là những thực thể không thể nào phân tách lẫn nhau được. Trường phái này đề ra Bhakti hay là lòng thành kính với God được hình tượng hóa như là Vishnu như là con đường dẫn tới sự giải thoát. Māyā được xem là quyền năng sáng tạo của God.

Dvaita

Dvaita được đề ra bởi Madhva. Trường phái này xem God và Brahman là hoàn toàn như nhau, và cũng là Vishnu hay là hóa thân Krishna của ngài. Phái này xem Brahman, tất cả các linh hồn cá nhân (jīvātman) và vật chất là vĩnh cửu và là những thực thể có thể phân tách ra được. Phái này cũng cho Bhakti (lòng mộ đạo) như là con đường dẫn tới sự giải thoát. Không có khái niệm của Māyā như là quyền năng ảo đằng sau thế giới này.

Dvaitādvaita

Dvaitādvaita được đề ra bởi Nimbārka, dựa trên một trường phái trước đó gọi là Bhedābheda, được dạy bởi Bhāskara. Theo như trường phái này, khái niệm jīvātman cùng một lúc là giống nhưng khác với Brahman. - mối quan hệ jiva có thể xem như là dvaita (nhị nguyên) từ một quan điểm và advaita (nhất nguyên) từ một quan điểm khác.

Shuddhadvaita

Shuddhadvaita được đề ra bởi Vallabha. Hệ thống này cũng ủng hộ Bhakti như là các phương tiện chính của giải thoát để đi đến Goloka (nghĩa đen, thế giới của những con bò; tuy nhiên trong tiếng Phạn, các từ 'đi đến','bò', cũng có nghĩa khác là 'ngôi sao'). Thế giới này được xem là một môn chơi thể thao (Leela) của Krishna, người là Sat-Chit-Ananda.

Achintya Bhedābheda

Achintya Bhedābheda được đề ra bởi Chaitanya Mahaprabhu (Bengal, 1486-1534). Bhaktivedanta Swami Prabhupada, người đề xướng phong trào Hare krishna trong thế kỉ 20 theo phái này.

Purnadvaita hoặc là Advaita toàn bộ

Sri Aurobindo, trong cuốn The Life Divine (Đời sống linh thiêng), đã tổng hợp tất cả các trường phái Vedanta hiện có và đưa ra một phương pháp toàn diện tổng hợp nhất thích hợp với siêu hình học của phương Tây và khoa học hiện đại. Ông cũng khôi phục lại những lời giải thích nguyên thủy mang tính Vedanta trong kinh Veda.

Vedanta hiện đại

Thuật ngữ "Vedanta hiện đại" đôi khi được sử dụng để miêu tả các diễn dịch của triết lý Advaita Vedanta được đề ra bởi Swami Vivekananda của dòng tu.. Ông khẳng định rằng:

  • Mặc dù God là sự thật tuyệt đối, thế giới là một hiện thực tương đối. Do đó ta không thể mặc kệ thế giới này hoàn toàn.
  • Những điều kiện nghèo khổ phải được gỡ bỏ; chỉ lúc đó thì con người mới có thể hướng tâm trí về với God.
  • Tất cả các tôn giáo đang cố gắng theo hướng của họ để đạt đến sự thật tuyệt đối. Những tranh cãi mang tính bè phái hạn hẹp do đó nên bị dẹp bỏ, và lòng khoan dung tôn giáo nên được thực hành — giữa các giáo phái Hindu khác nhau, cũng như Thiên chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo, v.v.

Vivekananda đã du hành đến Hội nghị tôn giáo thế giớiChicago vào năm 1893, và trở thành một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong việc tổng hợp các tư tưởng phương Đông và phương Tây. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá Vedanta đến các quốc gia phương Tây. Những cuộc du hành của ông sang phương Tây đã bị chỉ trích bởi những người Hindu chính thống giáo. Những người ủng hộ ông cho rằng ông đã làm sống lại Vedanta, bằng cách hiểu được làm thế nào nó có thể được áp dụng vào thế giới hiện đại, và đầu tư vào đó với tinh thần của ông. Đối với Vivekananda, Vedanta không phải là cái gì đó khô khan và bí hiểm, nhưng là một tiếp cận sống động cho quá trình tìm ra kiến thức từ bản thân mình.

Trong cách giảng giải Advaita của ông (cũng như trong cách của Shankara), vẫn còn chỗ cho Bhakti (lòng mộ đạo). Các nhà sư của dòng tu Ramakrishna đề nghị rằng sẽ dễ dàng hơn nếu bắt đầu việc thiền định với một dạng God cá nhân với hình dạng và các tính chất, hơn là dạng tuyệt đối không mang hình dạng nào cả. Saguna Brahman và Nirguna Brahman được xem là hai mặt của cùng một đồng xu.